Quá trình hình thành và phát triển bộ răng sữa của trẻ em là giai đoạn đầu tiên và rất quan trọng trong toàn bộ quá trình hình thành, phát triển của bộ răng vĩnh viễn sau này. Bởi chúng giữ chức năng giúp tiêu hóa thức ăn cho trẻ, giữ khoảng trên cung hàm, giúp kích thích sự tăng trưởng của xương hàm và giữ vai trò trong việc phát âm. Quá trình này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất mà còn có những tác động mạnh mẽ đến tâm lý của trẻ. Đây không chỉ là một quá trình sinh lý tự nhiên mà còn là quá trình có thể được can thiệp có định hướng.
Khi nào thì trẻ mọc răng sữa?
Răng sữa là những chiếc răng đầu tiên mọc lên ở trẻ, mầm răng sữa thường được hình thành trong xương hàm trước khi trẻ sinh ra. Cấu trúc răng bắt đầu thành lập ngay từ khi trẻ còn nằm trong bụng mẹ. Cụ thể là giai đoạn phôi của bộ răng sữa bắt đầu từ tuần lễ thứ 6 hoặc thứ 8 trong bào thai đến tháng thứ 6 sau khi trẻ sinh ra, thì hình thể răng bắt đầu hình thành và xuất hiện trong miệng.
Một số ít trường hợp răng sữa đã mọc khi trẻ vừa chào đời hoặc trong tháng đầu tiên của trẻ. Các răng này được gọi là răng sơ sinh. Theo một nghiên cứu tổng quan của tác giả Shubhangi Mhaske vào năm 2013, tỷ lệ xuất hiện răng sơ sinh là khoảng 1/2.000 đến 1/3.500 trẻ. Những chiếc răng sơ sinh này, đa số là răng cửa hàm dưới, có thể cần nhổ đi vì gây nguy hiểm cho đường thở của trẻ sơ sinh nếu trẻ vô tình nuốt phải khi chúng rơi ra, gây khó khăn cho trẻ khi bú hay gây viêm loét mặt dưới lưỡi.
Ngược lại, một số trẻ không mọc răng sữa dù đã qua thời điểm mọc răng hoặc mọc ít hơn số răng bình thường. Đây được gọi là tình trạng không răng hoặc thiếu răng bẩm sinh – một rối loạn hiếm gặp với các khiếm khuyết bẩm sinh ở hai hoặc nhiều cấu trúc ngoại bì như răng, da, tóc, móng tay, tuyến nội tiết, và tuyến nhờn. Theo một nghiên cứu tổng quan của tác giả Dhanrajani PJ, Jiffy năm 1998, tình trạng bệnh này chiếm tỷ lệ 1/100.000 trẻ sinh ra. Bệnh nhân thường có những biểu hiện điển hình như: trán nhô, cầu mũi xẹp, môi trề, tăng sắc tố da xung quanh mắt, tóc thưa, da khô nứt nẻ, hay khát nước, thường cảm thấy nóng và quấy khóc trong giai đoạn sơ sinh và 30% trẻ chết trong năm đầu tiên do sốt không rõ nguyên nhân và không xử lý kịp thời. Biểu hiện trong miệng bao gồm răng hình cọc hoặc hình chóp nhọn, trẻ thiếu răng hoặc mất răng hoàn toàn ở hàm răng sữa hoặc răng vĩnh viễn, răng có hình dạng bất thường, răng thường bị thưa, chậm mọc răng vĩnh viễn, xương ổ răng kém phát triển, cung khẩu cái cao hoặc có khe hở ở khẩu cái. Tình trạng này gồm 3 mức độ: trẻ thiếu dưới 6 răng, trẻ thiếu trên 6 răng và trẻ không có răng hoàn toàn. Nếu cha mẹ phát hiện trẻ có những dấu hiệu bất thường như trên, trẻ cần được thăm khám để phát hiện và điều trị kịp thời.
Độ tuổi mọc răng sữa ở mỗi trẻ đều khác nhau. Nói chung, những chiếc răng đầu tiên bắt đầu mọc ra khi trẻ khoảng sáu đến chín tháng tuổi. Toàn bộ 20 chiếc răng sữa sẽ mọc lên hoàn toàn trong miệng, kết thúc quá trình mọc răng sữa khi trẻ 3 tuổi. Sau đó, những chiếc răng sữa ở vị trí răng 1 đến răng 5 sẽ dần được thay thế bởi răng vĩnh viễn tương ứng. Răng số 6, 7 và 8 bắt đầu mọc lên phía sau các răng sữa và không thay thế cho răng sữa nào. Việc chăm sóc răng sữa đóng vai trò rất quan trọng vì chúng có nhiệm vụ giữ chỗ cho răng vĩnh viễn mọc lên, giúp trẻ có sự phát triển xương hàm và cung răng bình thường, hỗ trợ phát âm, chế độ dinh dưỡng và cân bằng tâm lý.
Dấu hiệu khi trẻ mọc răng
Mọc răng là một quá trình sinh lý bình thường bao gồm việc di chuyển răng trong xương hàm cho đến khi răng mọc lên trên nướu và xuất hiện trong miệng. Mặc dù đây là một quá trình phát triển tự nhiên ở trẻ, nhưng những tác động của việc mọc răng sữa trên sức khỏe tổng thể của trẻ em vẫn còn gây tranh cãi. Một số nghiên cứu gần đây cho rằng việc mọc răng có thể đi kèm với các biểu hiện khác nhau, chẳng hạn như trẻ chảy nước dãi nhiều, quấy khóc, khó chịu, chán ăn, ngủ không yên, tăng nhiệt độ cơ thể, hay dụi tai ở bên răng mọc, sưng nướu, kích ứng nướu và thích cắn gặm đồ vật.
Theo nghiên cứu của Mahtab Memarpour và cộng sự năm 2015, có đến 99,2% trẻ có trên 2 biểu hiện khi mọc răng. Trong đó, chảy nước dãi nhiều là một trong những biểu hiện mọc răng phổ biến nhất. Nướu bị kích thích do quá trình mọc răng làm tăng tiết nước bọt. Nước bọt dư thừa có thể khiến trẻ dễ bị ho hoặc nôn mửa. Tuy nhiên biểu hiện này không đáng lo nếu trẻ không có dấu hiệu cảm cúm như ho, sốt cao… Ngoài ra, chảy nước dãi có thể gây phát ban ở vùng cằm khi nước bọt tiếp xúc với da quanh miệng. Do đó, vệ sinh miệng và cằm cho trẻ được khuyến cáo để ngăn ngừa phát ban.
Hầu hết trẻ thích cắn gặm đồ vật hay mút tay là để giảm việc kích ứng nướu. Hoạt động cắn nhai sẽ giúp trẻ giảm bớt áp lực từ việc mọc răng. Tuy nhiên, đó cũng là lý do gây nhiễm khuẩn từ đồ vật hoặc ngón tay trẻ – một yếu tố có thể gây ra tiêu chảy.
Nhiều phụ huynh nhận thấy trẻ mọc răng sẽ có dấu hiệu bị sốt. Hầu hết các nghiên cứu cho rằng có sự tăng nhẹ nhiệt độ cơ thể của trẻ khi mọc răng, chứ không phải sốt thực sự. Nghiên cứu của Carla Massignan, 2016 cho thấy nhiệt độ cơ thể của trẻ vào những ngày răng chưa mọc ở khoảng 36,9ºC đến 37,1ºC và trong ngày răng mọc nhiệt độ cơ thể trẻ trung bình khoảng 37,6ºC. Việc mọc răng khiến nhiệt độ cơ thể tăng nhẹ, đặc biệt là vào ngày răng mọc và sẽ giảm dần cho đến khi răng nhú lên hoàn toàn. Trẻ có thể bị sốt nhẹ và sẽ tự khỏi sau vài ngày. Cơn sốt thực sự có thể là do những thay đổi trong sự phát triển ở trẻ như khả năng miễn dịch giảm hay dấu hiệu của một bệnh nào đó. Trong một số trường hợp trẻ có biểu hiện mọc răng đi kèm với sốt cao kéo dài trên 2 ngày, trẻ cần được can thiệp bởi bác sĩ chuyên khoa.
Chăm sóc đúng cách khi trẻ mọc răng
Trong suốt thời kì mọc răng, trẻ cần được đảm bảo chế độ dinh dưỡng đầy đủ và khoa học. Những loại thực phẩm như sữa, sữa chua, tôm, cua, cá, rau xanh, củ quả tươi cung cấp hàm lượng canxi lớn cho sự phát triển răng ở trẻ.
Để giảm triệu chứng đau khi trẻ mọc răng, một số phương pháp được sử dụng như quấn bé, ôm ấp bé, massage nhẹ nhàng nướu bằng gạc sạch thấm ướt, cho bé sử dụng đồ gặm nướu, núm vú giả. Thức ăn của trẻ nên hầm nhừ, mềm nhuyễn, tốt nhất nấu dạng cháo loãng, súp, trẻ chỉ cần nuốt mà không phải nhai. Với hoa quả cha mẹ nên ép lấy nước để hơi mát, như vậy tình trạng đau nhức sẽ giảm thiểu, đồ uống hơi mát sẽ làm nướu của bé đỡ sưng đau hơn rất nhiều.
Các mẹ đang cho con bú có thể cho bé bú thường xuyên hơn khi bé mọc răng để cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu cho bé, việc này cũng góp phần làm bé bình tâm và bớt quấy khóc.
Một số cha mẹ cho trẻ ngậm thức ăn ngọt hoặc núm vú nhúng qua mật ong để làm dịu cơn đau cho trẻ. Thực tế, các nghiên cứu cho thấy thức ăn ngọt, mật ong hay đường không có tác dụng làm giảm đau, mà chúng làm tăng nguy cơ sâu răng ở trẻ.
Trong giai đoạn mọc răng sữa, việc vệ sinh răng miệng cho trẻ là cực kỳ quan trọng. Cha mẹ nên dùng gạc thấm nước muối rồi lau kĩ vùng răng, nướu, lưỡi cho trẻ dưới 1 tuổi. Từ 1-3 tuổi, cha mẹ đánh răng cho trẻ bằng bàn chải em bé và kem đánh răng cho trẻ em phù hợp từng giai đoạn của trẻ với lượng bé bằng hạt đậu và sử dụng chỉ nha khoa để làm sạch thức ăn bám dính vào các kẽ răng. Tay trẻ và các vật dụng đồ chơi của trẻ cần đảm bảo luôn được sạch sẽ. Khi trẻ chảy nước dãi nhiều, cha mẹ nên thường xuyên lau miệng và cằm cho trẻ, hoặc có thể cho trẻ đeo yếm trước ngực để đảm bảo nước dãi không làm ướt và lạnh vùng ngực trẻ.
Những lưu ý khi trẻ mọc răng và thay răng vĩnh viễn
Từ 6-12 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp giữa răng sữa và răng vĩnh viễn, hay còn gọi là thời kì trẻ có bộ răng hỗn hợp. 20 răng sữa rụng đi nhường chỗ cho 20 chiếc răng vĩnh viễn mọc lên. Những vấn đề bất ổn xảy ra trong thời kỳ này có thể ảnh hưởng đến thẩm mỹ cũng như sức khỏe răng miệng của trẻ về sau.
Quá trình thay răng sẽ diễn ra theo trình tự răng sữa nào mọc trước thì rụng trước và răng vĩnh viễn sẽ mọc lên theo thứ tự như răng sữa. Nếu gặp phải những vấn đề như răng sữa rụng quá sớm hay quá muộn, rối loạn về thứ tự mọc răng vĩnh viễn, xuất hiện khe hở giữa 2 răng cửa vĩnh viễn lúc mới mọc, dư hoặc thiếu răng, bất thường về hình dạng, cấu trúc, màu sắc hay cách sắp xếp thì cần đưa trẻ đi gặp Nha sĩ để tránh những lệch lạc cho răng trẻ sau này.
Bên cạnh đó, trong thực đơn dinh dưỡng hằng ngày cần chú ý bổ sung những loại thực phẩm nhiều chất xơ và có độ dai cứng như thịt bò, cà rốt, rau xanh, bắp, các loại hạt, trái cây… để giúp nướu, xương hàm, cơ mặt phát triển, đồng thời kích thích quá trình thay răng và mọc răng vĩnh viễn diễn ra suôn sẻ.
Ba mẹ cần theo dõi để tránh trẻ có những thói quen xấu như: mút tay, đẩy lưỡi, dùng lưỡi tác dộng đến chỗ răng mọc, nghiến răng, thở bằng miệng, dùng quá nhiều thực phẩm chứa nhiều đường. Những hành động này tưởng chừng như vô hại nhưng lại vô tình tạo nên những khiếm khuyết về răng như răng lệch lạc, hô, móm, tổn hại nướu, răng, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công gây sâu răng và viêm nướu.
Giai đoạn thay răng và mọc răng vĩnh viễn, bố mẹ nên giúp trẻ rèn luyện ý thức giữ gìn vệ sinh răng miệng sạch sẽ. Nhắc nhở, tạo cho trẻ thói quen đánh răng 3 lần mỗi ngày, đặc biệt là buổi sáng khi thức dậy và trước khi đi ngủ với bàn chải lông mềm và bàn chải lưỡi. Cho trẻ sử dụng chỉ nha khoa và nước súc miệng để loại bỏ thức ăn thừa và mảng bám trên những chỗ mà bàn chải không thể chải tới. Ba Mẹ nên cho trẻ khám răng định kì 6 tháng /lần để nha sĩ theo dõi và có cách can thiệp kịp thời khi răng trẻ có khuynh hướng sai lệch hay bị bệnh lý.
Nguồn: TS. BS Võ văn Nhân – Tạp chí Sức khỏe