Trong mô hình về công tác xã hội với các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, dễ bị tổn thương, mô hình công tác xã hội với người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt ở các quốc gia phát triển, nơi công tác xã hội có quá trình phát triển lâu dài và có nền tảng phúc lợi vững chắc (Watts, Elliott & Mayadas 1995). Với tỷ lệ người khuyết tật chiếm tới 10% dân số thế giới, nghĩa là có tới gần 30% dân số thế giới hàng ngày có mối quan hệ trực tiếp với người khuyết tật, việc có được các mô hình trợ giúp cho người khuyết tật không chỉ là mối quan tâm trực tiếp đối với người khuyết tật, mà còn là những cách thức điều chỉnh và tác động đến đời sống của xã hội (World Health Organisation & The World Bank 2011). Đó cũng chính là mô hình và cách tiếp cận đến các hoạt động công tác xã hội theo định hướng hòa nhập, hiện đang được triển khai và áp dụng ở các quốc gia phát triển như Úc, Canada, các nước bắc Âu, Mỹ…
Là một quốc gia phát triển, công tác xã hội ở Úc được du nhập và phát triển đầu những năm 30 ở thế kỷ trước, khởi đầu ở ba thành phố lớn là Sydney, Melbourne và Adelaide. Mô hình công tác xã hội ở Úc, qua quá trình phát triển cho tới ngày nay là sự tổng hòa, chắt lọc các mô hình của Anh và Mỹ, trong đó nhấn mạnh các mô hình lấy dịch vụ xã hội làm nền tảng và giá trị hòa nhập xã hội làm cốt lõi. Lịch sử công tác xã hội Úc chứng kiến được sự chuyển đổi và nổi trội của các mô hình công tác xã hội với người khuyết tật, nhất là những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 khi mô hình hòa nhập xã hội nói chung được xem là định hướng về mặt phúc lợi xã hội, xây dựng xã hội hòa đồng và tăng cường sức mạnh nội tại. Định hướng về mặt hòa nhập xã hội được lồng ghép vào trong tất cả các chương trình lập pháp, các chính sách xã hội và dịch vụ xã hội ở cấp liên bang và các tiểu bang (Watts, Elliott & Mayadas 1995, tr.364; Napier & George 2001).
Với những chính sách phúc lợi xã hội cởi mở, việc xác định người khuyết tật nằm trong mô hình được trợ giúp và được tác động bởi dịch vụ xã hội ngày càng được mở rộng. Điều này đã được thể hiện qua tỷ lệ người khuyết tật được công nhận bởi hệ thống phúc lợi, hiện nước Úc có khoảng 20% dân số là người khuyết tật, là quốc gia có tỷ lệ người khuyết tật lớn nhất trên thế giới (Greg & Phillips 2001; Phillips 2008; The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific 2010). Nước Úc cũng là quốc gia đi đầu trong việc cam kết và phê chuẩn các công ước quốc tế với các nội dung liên quan đến vấn đề người khuyết tật, chính điều này đã có những tác động mạnh mẽ đến việc đưa mô hình công tác xã hội với người khuyết tật gần hơn với nhu cầu của đời sống xã hội.
Trong bài viết này, qua việc tìm hiểu mô hình và tiến trình về công tác với trẻ khuyết tật ở Úc, xem xét một vài trường hợp can thiệp trực tiếp (công tác xã hội cá nhân), từ đó có đề cập một số vấn đề đặt ra đối với công tác xã hội với người khuyết tật ở Việt Nam ở trên các góc độ: xây dựng mô hình lý luận, quy điều thực hành, hệ thống dịch vụ, cũng như công tác đào tạo và tạo nguồn nhân lực công tác xã hội trong lĩnh vực khuyết tật.
1. Người khuyết tật ở Úc và các mô hình trợ giúp
1.1. Người khuyết tật ở Úc
Nước Úc là một quốc gia phát triển với 6 tiểu bang (New South Wales, Queensland, South Australia, Victoria, Tasmania và Western Australia), và hai khu vực có sự quản lý trực tiếp từ nhà nước (Australian Capital Territory và Northern Territory). Hiến pháp năm 1901 của Úc đã xác định quyền lực được phân quyền rõ ràng giữa nhà nước trung ương và các tiểu bang (Barbara & Frances 2010). Là quốc gia có diện tích khoảng 7.6 triệu km2 và nguồn dân số khoảng 23 triệu dân (Barbara & Frances 2010, pp:258-261). Trong những số liệu gần nhất, hiện có khoảng 20% dân số là người khuyết tật (Greg & Phillips 2001; Phillips 2008; The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific 2010)-là một quốc gia có tỷ lệ người khuyết tật lớn nhất trên thế giới. Thuật ngữ khuyết tật-người khuyết tật ở Úc dựa trên các quan điểm chung của quốc tế và có áp dụng mở rộng trong điều kiện của Úc với một số cách tiếp cận sau:
(1) “người khuyết tật” được đề cập đến những ai có quá trình thương tật, khó khăn về vận động hoặc là rào cản cho sự tham gia vào các hoạt động chung của xã hội kéo dài quá 6 tháng.
(2) “hạn chế về hoạt động do tình trạng nặng/nghiêm trọng” được đề cập nhằm xác định xem ai cần có sự trợ giúp trong cuộc sống hàng ngày: đi lại, tự chăm sóc, và giao tiếp.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy tình trạng người khuyết tật ở Úc trên một số phương diện sau:
– Tỷ lệ khuyết tật khác nhau ở các nhóm tuổi: Tỷ lệ khuyết tật tăng tỷ lệ thuận với độ tuổi, ở độ tuổi 20-30, chỉ có khoảng 10% trong khi ở độ tuổi 50-60, tỷ lệ này lên tới 33% (Australian Bureau of Statistics 2003)
– Mặc dù có sự gia tăng về tỷ lệ khuyết tật trong những năm qua, các nghiên cứu ước tính tỷ lệ người khuyết tật nặng sẽ đạt ở mức trên 2 triệu người vào năm 2030 (Australian Bureau of Statistics 2009; Australian Institute of Health and Welfare 2009, p.145) điều này đòi hỏi các hoạt động trợ giúp và các mô hình trợ giúp cụ thể với đối tượng này.
Quan điểm trợ giúp và thúc đẩy vai trò người khuyết ở Úc là nhằm hướng đến đẩy mạnh việc tham gia xã hội, hòa nhập xã hội và quyền bình đẳng của mọi công dân. Các quy định và định hướng này được thể chế hóa trong các bộ luật của liên bang và các bang với quá trình biện hộ mạnh mẽ của người khuyết tật (Michailakis 1997; Phillips 2008). Qua việc xem xét hệ thống chính sách và dịch vụ cho người khuyết tật, có thể thấy rằng các cách tiếp cận nhằm thay đổi và nâng cao cuộc sống người khuyết tật ở Úc dựa trên cách tiếp cận về dịch vụ, cách tiếp cận lấy người khuyết tật làm trung tâm, và cách thức triển khai các dịch vụ đó không chỉ dựa trên thuần túy sự vận hành của nhà nước mà còn từ các tổ chức được nhà nước cho phép. Các cách tiếp cận này đã thể hiện được định hướng phát triển cộng đồng là hướng đi bền vững cho chính người khuyết tật và xã hội.
1.2. Trẻ khuyết tật ở Úc
Nửa đầu thế kỷ trước, trẻ khuyết tật hầu như vắng bóng trong các chương trình xã hội và dịch vụ xã hội. Các điều kiện kinh tế xã hội thời kỳ này có những tác động không nhỏ đối với việc tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật có được hình ảnh rõ trong xã hội. Tuy nhiên, những nỗ lực về giáo dục cho trẻ khuyết tật đã được đầu tư và làm nền tảng cho sự hòa nhập và các chương trình hòa nhập cho người khuyết tật cũng như cho trẻ khuyết tật ở Úc. Với mục tiêu giáo dục cho mọi người, thời gian này mô hình giáo dục cho trẻ khuyết tật được vận hành chủ yếu ở các trung tâm giáo dục đặc biệt hoặc các tổ chức từ thiện tư nhân có sự trợ giúp của chính phủ.
Những năm 1960-1970, các chương trình xã hội hướng đến thay đổi nhận thức về người khuyết tật đã được khởi xướng ở nhiều nơi bằng các mô hình cụ thể như phong trào nhân quyền, các nghiên cứu về bình thường hóa điều này cũng thúc đẩy khả năng độc lập và tham gia của người khuyết tật và trẻ khuyết tật. Đặc biệt khi Úc ký cam kết tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của người tâm thần (1971) và Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật (1975). Qua đó, trẻ khuyết tật được hưởng các chương trình, dịch vụ về giáo dục hòa nhập, cũng thời kỳ này mô hình chuyên biệt hóa trong giáo dục được chuyển sang hướng hòa nhập hóa ở các cơ sở giáo dục từ cấp tiểu học, tuy nhiên các mô hình chuyên biệt trong hòa nhập vẫn tồn tại và được chính quyền các bang đầu tư (Australian Institute of Health and Welfare. 2004, tr.65-66).
Năm 1981, Năm quốc tế về người khuyết tật cùng với việc hưởng ứng thập kỷ đầu tiên về người khuyết tật, nước Úc đã xây dựng một chiến lược hành động với tên gọi “Phá bỏ những rào cản”, đây là nền tảng cho vấn đề hòa nhập trong đó nhấn mạnh đến việc xây dựng các mô hình và các chương trình dịch vụ cho người khuyết tật nói chung, đặc biệt là các dịch vụ về học tập cho trẻ khuyết tật.
Với việc được ghi nhận các quyền và hưởng dịch vụ xã hội ở hầu hết các văn bản của Liên bang và tiểu bang , trẻ khuyết tật ở Úc luôn được bảo vệ và được nâng cao các cơ hội để tăng cường khả năng tiếp cận xã hội, tiếp cận các chương trình dịch vụ, các hoạt động bảo trợ, chăm sóc tại cơ sở và tại cộng đồng cũng như được hưởng đầy đủ mô hình giáo dục hòa nhập ở các cấp học. Chính điều này làm tăng quá trình “giải thiết chế hóa” các cơ sở chuyên biệt cho người khuyết tật. Điều này cũng có nghĩa ngày càng có nhiều trẻ khuyết tật được sống trong cộng đồng hơn là phải sống trong các cơ sở bảo trợ. Nếu năm 1981, có khoảng 15.9% những người khuyết tật nặng dưới 30 tuổi phải sống trong các cơ sở bảo trợ, thì cho tới đầu những năm 1990, tỷ lệ này chỉ còn 3.1% (Australian Bureau of Statistics 2009).
Hiện tại có khoảng 317,900 trẻ em khuyết tật ở Úc, cũng có nghĩa là cứ 12 trẻ em có một trẻ khuyết tật, tỷ lệ này chiếm 8.9% trong độ tuổi. Trong đó hơn 1/3 là trẻ em khuyết tật nặng (Australian Bureau of Statistics 2003). Dựa theo cách đo lường của WHO, thời gian qua trẻ khuyết tật ở Úc được chia ở các dạng giao tiếp, vận đông, tự chăm sóc và ở bốn cấp độ: Rất nặng, Nặng, Bình thường và Nhẹ (2003). Từ năm 2006, việc phân loại khuyết tật được thực hiện ở các dạng nhận thức/học tập, tâm thần, nghe/nhìn/nói, vận động. Trong đó, đa phần trẻ khuyết tật ở trạng thái nhận thức/học tập và vận động. Tỷ lệ trẻ khuyết tật trong độ tuổi 5-14 được đến trường với tỷ lệ rất cao (97%), trong đó 89% ở các trường hòa nhập (Australian Government 2011).
1.3. Các mốc thời gian về dịch vụ và sự trợ giúp người khuyết tật ở Úc
– 1908: Lần đầu tiên đề cập các hoạt động giúp đỡ người tàn tật
– 1940s: Dịch vụ về phục hồi chức năng được hình thành nhằm giúp đỡ các thương binh và nạn nhân chiến tranh, tiếp sau là hàng loạt các mô hình dịch vụ về nhà ở được các tổ chức từ thiện và tình nguyện thực hiện.
– 1960s, 1970s: Nhà nước gia tăng nguồn quỹ trợ giúp người khuyết tật ở các lĩnh vực nhà ở, việc làm và các dịch vụ trợ giúp.
– 1981: Các hoạt động tăng cường nhận thức về khuyết tật hưởng ứng năm quốc tế về người khuyết tật. Tiếp theo là các sáng kiến và xu hướng làm giảm các mô hình chuyên biệt cho người khuyết tật và xây dựng Đạo luật về dịch vụ khuyết tậtvào năm 1986.
– Gói các chương trình cải cách vấn đề khuyết tật năm 1991 được chính phủ đưa ra nhằm điều chỉnh lại việc trợ giúp thu nhập của người khuyết tật, đây là hoạt động nhằm hướng đến quá trình hội nhập của người khuyết tật vào lực lượng lao động chung của xã hội.
– 1991: Văn bản cam kết giữa Liên bang và Tiểu bang về người khuyết tật đầu tiên được ký kết, sự kiện này hướng đến xác định rõ vai trò và trách nhiệm của bộ máy quản lý nhà nước và các tổ chức chức năng.
– 1992: Đạo luật chống phân biệt đối xử khuyết tật được ra đời nhằm xóa bỏ thái độ kỳ thị đối với người khuyết tật cũng như tăng cường sự tham gia của người khuyết tật và đảm bảo các quyền cơ bản cho người khuyết tật.
– Chiến lược sức khỏe tâm thần quốc gia năm 1992 hướng đến triển khai các trợ giúp xã hội và dịch vụ xã hội cho người khuyết tật ở lĩnh vực tâm thần (Australian Government 1992).
– Chiến lược quốc gia về khuyết tật năm 1994 với kế hoach 10 năm nhằm đảm bảo người khuyết tật có quyền và cơ hội tiếp cận bình đẳng các chương trình và dịch vụ của nhà nước.
– 1997: Cam kết lần thứ hai giữa liên bang và các tiểu bang nhằm tiếp tục triển khai các mô hình giúp đỡ về mặt dịch vụ cho người khuyết tật và phát triển các chương trình hành động cụ thể của từng tiểu bang. (Greg & Phillips 2001; Phillips 2008). Cam kết lần thứ 3 được thực hiện năm 2002.
– 2008: Úc ký kết công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và các nghị định thư đi kèm.
– 2009 cam kết lần thứ tư giữa liên bang và tiểu bang được ký kết và được hình thành với tên gọi khác Cam kết quốc gia về khuyết tật với 5 nội dung chính về tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ chung của xã hội, tăng cường sự gắn kết giữa các bộ máy của chính quyền, tăng cường sức mạnh của cá nhân, gia đình và nhân viên xã hội, cảm thiện các chương trình dài hạn nhằm đáp ứng và quản lý các nhu cầu ở các dịch vụ khuyết tật cụ thể và cản thiện khả năng lượng giá, đánh giá và quản lý mô hình dịch vụ cho người khuyết tật (Australian Government 2009a)
2. Công tác xã hội với trẻ khuyết tật ở Úc
Theo những đánh giá của Bộ chăm sóc gia đình, khoảng 94% trẻ khuyết tật nặng ở Úc nhận được các dịch vụ trợ giúp chính thức. Trong số đó, có tới 69% nhận được các mô hình trợ giúp chính thức và không chính thức. Ở đây, mô hình trợ giúp chín thức là các hoạt động trợ giúp từ chính phủ, còn mô hình trợ giúp không chính thức là hoạt động chăm sóc, giúp đỡ của các gia đình.
Với tỷ lệ trẻ khuyết tật cao trong xã hội, các hoạt động trợ giúp cũng như lực lượng thực hiện sự trợ giúp luôn là những vấn đề được quan tâm trong hoạt động với người khuyết tật. Hiện có khoảng 54.600 người đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc ban đầu cho trẻ khuyết tật nặng, trong số đó đa phần là các bậc cha mẹ (91%), trong đó 48% có nhu cầu được trợ giúp về tài chính và các hoạt động trợ giúp chuyên môn của các tổ chức nghiệp vụ (công tác xã hội, tham vấn, tư vấn…)
Các mô hình trợ giúp cho trẻ khuyết tật ở Úc được thể hiện ở 5 mô hình: Tự chăm sóc, Vận động, Giao tiếp, Sức khỏe và giao thông đi lại. Trong các hoạt động không chính thức, mô hình tự chăm sóc và giao thông đi lại được thực hiện là phổ biến, trong khi các hoạt động chính thức từ chính phủ chủ yếu ở các hoạt động vận động và giao tiếp.
Ngoài các mô hình công tác xã hội này, từ Cam kết quyền và trách nhiệm giữa liên bang và các bang, 5 mô hình trợ giúp khác được thực hiện:
(i) Trợ giúp về chỗ ở: Mô hình này cung cấp các dịch vụ về nhà ở cho người khuyết tật cũng như các hoạt động nhằm giúp người khuyết tật duy trì cuộc sống ở nơi ở mới này hoặc hướng đến nơi ở phù hợp. Các hoạt động ở mô hình này bao gồm việc tạo chỗ ở ở các khu nhà tập trung, hoạt động chăm sóc tại nơi ở, hoặc tìm kiếm nơi ở, gia đình phù hợp nhất là cho đối tượng trẻ khuyết tật và người khuyết tật không nơi nương tựa;
(ii) Trợ giúp cộng đồng: Bao gồm các dịch vụ cần thiết cho người khuyết tật như trị liệu, can thiệp thời kỳ trẻ thơ, can thiệp hành vi, tham vấn (cá nhân, gia đình và nhóm). Các hoạt động này được vận hành bởi các bộ phận và nhân viên công tác xã hội khu vực, các nhà quản lý ca, các chương trình hợp tác và phát triển của từng cộng đồng.
(iii) Trợ giúp việc tiếp cận cộng đồng: Các dịch vụ ở mô hình này được hình thằm nhằm tạo cơ hội cho người khuyết tật sử dụng và đạt được những khả năng riêng của bản thân nhằm tăng sự độc lập trong cuộc sống. Với những trẻ khuyết tật không có cơ hội đến trường, những người không được làm việc đều có thể sử dụng dịch vụ này của cộng đồng. Các hoạt động rất đa dạng từ việc học tập (định hướng học tập suốt đời), đến việc giải trí, vui chơi ở cộng đồng, các sự kiện văn hóa; từ việc được hưởng dịch vụ tại gia đình hoặc tại các cơ sở chung của cộng đồng.
(iv) Các dịch vụ nghỉ ngơi: Đây là mô hình về các hoạt động trong thời gian ngắn hoặc giải tỏa những căng thẳng cho gia đình của người khuyết tật. Mô hình này giúp đỡ công việc chăm sóc trẻ khuyết tật của các thành viên trong gia đình. Các hoạt động có thể được thực hiện tại gia đình hoặc các trung tâm của cộng đồng.
(v) Các dịch vụ về việc làm: Các hoạt động được hình thành nhằm trợ giúp người khuyết tật khi tham gia vào lực lượng lao động của xã hội, bao gồm các dịch vụ về giới thiệu việc làm, đào tạo nghề, cũng như các dịch vụ trợ giúp người tuyển dụng lao động trong việc sử dụng nguồn nhân lực là khuyết tật và trợ giúp đồng nghiệp của người khuyết tật để tạo dựng một môi trường làm việc hòa đồng, không rào cản cho cả người khuyết tật và người không khuyết tật.
Trong 5 mô hình công tác xã hội này, mô hình trợ giúp cộng đồng được xem là mô hình đem lại nhiều hoạt động và hiệu quả nhất với hàng loạt các giải pháp và hoạt động cụ thể. Các hoạt động công tác xã hội được triển khai từ mô hình này bình quân thu hút được khoảng gần 40.000 lượt người tham gia hàng năm, thu hút khoảng 42% trẻ khuyết tật tham gia
Với các mô hình trợ giúp (cá nhân, nhóm và cộng đồng) đa dạng, sự tham gia xã hội của trẻ khuyết tật ở Úc ngày càng được mở rộng và xã hội Úc được xem là xã hội mang tính hòa nhập cao. 89% số trẻ khuyết tật trong độ tuổi 5-14 tham gia vào trường học hòa nhập, chỉ 9% tham gia học tập ở môi trường chuyên biệt và 3% không theo học (Australian Government 2011).
Thông qua các mô hình công tác xã hội với trẻ khuyết tật ở Úc, một trong những điểm nổi bật mà các hoạt động đó định hướng đến chính là cách tiếp cận hòa nhập xã hội. Hòa nhập xã hội được xem như một giá trị và một định hướng mới của thực hành công tác xã hội, điều này đã được thể hiện trong hàng loạt các nghiên cứu gần đây về đổi mới thực hành công tác xã hội trong thế kỷ 21 (một bộ sách gồm 36 ấn phẩm về đổi mới thực hành công tác xã hội do Nhà xuất bản Learning Matters thực hiện từ năm 2001 đến nay). Đồng thời, ở Úc hòa nhập xã hội đã trở thành một định hướng cho các chương trình và dịch vụ xã hội nói chung cho các đối tượng yếu thế, và là mô hình vận hành của hệ thống phúc lợi xã hội ở các tiểu bang và ở liên bang.
2. 1. Hòa nhập xã hội như một định hướng cho công tác xã hội
Ở Úc, quan điểm về xã hội hòa nhập đã được chính quyền bang Nam Úc khởi xướng từ năm 2002 qua việc hình thành bộ phận “các sáng kiến về hòa nhập xã hội” (Government of South Australia 2009). Hoạt động này cũng có chút tương đồng với các sáng kiến của Anh Quốc thời gian đó, chỉ có sự khác biệt về cách tiếp cận và tên gọi của các chương trình hành động. Trong thực tế, việc hướng đến mô hình hòa nhập xã hội đã đem lại cách nhìn tích cực hơn về vấn đề này, Silver và Daly cho rằng hình thức này đã thay đổi từ việc mô tả vấn đề sang việc xác định mục tiêu cần đạt được, đồng thời hòa nhập xã hội hướng đến tạo dựng các cơ hội trong khi đó loại trừ hàm ý các cơ chế của một xã hội trong việc phòng ngừa các vấn đề của nó (Daly & Silver 2008). Cách tiếp cận hòa nhập đã được nhiều học giả cổ súy và đề xuất áp dụng thay cho tên gọi về loại trừ xã hội. Từ sáng kiến đó của Nam Úc, Chính phủ Úc đã thành lập một bộ phận hòa nhập xã hội (phó Thủ tướng phụ trách chính) vào năm 2007 (Ministerial Advisory Committee: Student with Disabilities 2005).
Các lĩnh vực mà hoạt động hòa nhập xã hội hướng đến can thiệp bao gồm các vấn đề vô gia cư, sức khỏe tâm thần, giáo dục, khuyết tật, việc làm, người thổ dân, vấn đề nhập cư. Các lĩnh vực này được thực hiện dựa trên 11 nguyên tắc: Làm giảm sự bất lợi (đảm bảo mọi công dân có được lợi ích từ việc tiếp cận đến các dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ phúc lợi khác); tăng cường sự tham gia xã hội, kinh tế và dân sự (trợ giúp mọi người có được các kỹ năng và nhu cầu để có thể làm việc, liên kết với cộng đồng); tăng cường tiếng nói và trách nhiệm (chính phủ và các tổ chức xã hội tạo điều kiện cho các thành viên được thể hiện tiếng nói về các dịch vụ mà người dân cần cũng như biểu hiện các trách nhiệm của mình trong cuộc sống); tạo dựng sức mạnh cá nhân và cộng đồng (giúp các cá nhân nâng cao năng lực, kể cả người thiểu số và những người thuộc các nền văn hóa khác nhau); tạo dựng mối quan hệ hợp tác với các đối tượng hưởng lợi; phát triển các dịch vụ đa dạng; can thiệp/phòng ngừa sớm; tạo dựng các dịch vụ gắn kết và các giải pháp đồng bộ của nhà nước (huy động sự tham gia giải quyết vấn đề của các tổ chức khác nhau ở các cấp quản lý khác nhau để tạo ra dịch vụ xã hội cho đúng đối tượng); sử dụng các dữ liệu thống nhất để tạo dựng chính sách; sử dụng cách tiếp cận vị trí (tập trung vào địa bàn có nhiều đối tượng cần tác động về mặt chính sách); và lập kế hoạch vì sự phát triển bền vững (Australian Government 2008, 2009b).
Đồng thời, Chính phủ Úc cũng đề xuất các chỉ báo về hòa nhập xã hội ở các khía cạnh sau:
Áp lực xã hội: về thu nhập gia đình thấp, về giá thuê nhà ở, áp lực về mua sắm đồ dùng gia đình, về các hộ gia đình đơn thân
Sức khỏe: sinh nhẹ cân, thương tật thời ấu thơ, tiêm chủng, trợ giúp khuyết tật/ đau yếu, tuổi thọ, số lượng bệnh nhân tâm thần, bệnh viện, tự sát
Sự an toàn cộng đồng: số vụ ngược đãi trẻ, tội phạm, số lượng bị bỏ tù, số vụ bạo lực gia đình
Kinh tế: số lượng nhân công không có kỹ năng, thất nghiệp, thất nghiệp triền miên, tỷ lệ người sống phụ thuộc, thu nhập thấp, hạn chế tiếp cận thông tin/internet
Giáo dục: không tham gia bậc mẫu giáo, không hoàn thành chương trình học, rời bỏ trường học sớm, trình độ sau bậc học phổ thông
Sự tham gia vào cộng đồng: với hàng loạt các khía cạnh về tham gia các hoạt động ở cộng đồng (Silver 2010).
Với các tiếp cận này, hòa nhập xã hội được xem là một tiến trình về mặt quan hệ năng động, nó hướng đến xây dựng các mối quan hệ xã hội, sự tham gia của mọi công dân trong việc xây dựng, điều hành và giám sát các chính sách, đó là điều tiên quyết của hòa nhập xã hội. Đồng thời, cách tiếp cận hòa nhập xã hội ở đây đang hướng đến các vấn đề về dịch vụ xã hội và dịch vụ dựa trên cộng đồng.
Có thể nhận thấy, quan điểm hòa nhập xã hội đã hướng gần với quan điểm trao quyền trong công tác xã hội, nhưng nó nhấn mạnh nhiều hơn đến vai trò của hệ thống dịch vụ và phúc lợi xã hội. Hòa nhập xã hội là các hoạt động không chỉ tập trung vào đối tượng được tác động và còn có các hoạt động tác động đến hệ thống xã hội và môi trường xã hội mà các nhân được tác động sinh sống, làm việc. Cách làm này đã thể hiện tính bền vững và lấy nguồn lực của cộng đồng làm nền tảng cho các mô hình tác động và vận hành của công tác xã hội, đồng thời cũng là định hướng làm thay đổi hệ thống dịch vụ xã hội, từ chỗ thuần túy hoạt động trợ giúp tài chính sang hoạt động đào tạo nghề, cung cấp dịch vụ và trao quyền, tăng khả năng độc lập của đối tượng tác động. Định hướng hòa nhập ở Úc còn mang sắc thái văn hóa đậm nét trong một xã hội đa văn hóa, đa cộng đồng người, các hoạt động can thiệp ngoài vấn đề giúp thân chủ tự và tìm cách thức giải quyết vấn đề còn quan tâm đến khía cạnh hài hòa văn hóa giữa cộng đồng của thân chủ, của thân chủ và của xã hội rộng lớn hơn.
2.2. Tiến trình công tác xã hội với người khuyết tật ở Úc
Trong hệ thống quy chuẩn nghề của nhân viên xã hội ở Úc, nhân viên xã hội trong lĩnh vực khuyết tật được Hội công tác xã hội Úc hết sức coi trọng và xây dựng một hệ chuẩn mực riêng cho đối tượng này (AASW 2011). Theo ước tính của Hội nhân viên xã hội Úc, hiện có khoảng gần 15 ngàn nhân viên xã hội làm việc trong lĩnh vực khuyết tật, ở các mô hình công tác xã hội của chính phủ, của các tiểu bang và các tổ chức xã hội, phi chính phủ và từ thiện khác nhau (Bland, Renouf & Tullgren 2009).
Qua 4 năm làm việc tại tổ chức Định hướng hòa nhập trong việc trợ giúp trẻ em khuyết tật hòa nhập tại các cơ sở nhà trẻ, trường học, tôi có tìm hiểu và tóm lược một số nguyên tắc cơ bản làm định hướng cho tiến trình công tác xã hội với đối tượng trẻ em khuyết tật ở các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, nhân viên xã hội luôn phải thừa nhận quan điểm cho rằng thân chủ là người luôn có khả năng, năng lực và có tiềm năng để phát triển. Khi một thân chủ được xem là thiếu thông tin, thiếu kiến thức, thiếu kỹ năng sống, trách nhiệm của nhân viên xã hội là phải hướng đến giúp thân chủ hướng đến đạt được và tìm ra cách thức đạt được những điều đó. Nhân viên xã hội thường xuyên phải lượng giá năng lực và khả năng của thân chủ để qua đó luôn tìm cách để tối đa hóa những tiềm năng của họ.
Thứ hai, nhân viên xã hội trong lĩnh vực khuyết tật thường xuyên phải vượt qua quan điểm cho rằng vấn đề khuyết tật nằm ở cá nhân người khuyết tật và rằng người khuyết tật luôn phải thay đổi và cần được phù hợp trước khi họ thực hiện được chức năng theo yêu cầu trong xã hội. Công tác xã hội khuyết tật luôn phản đối quan điểm về bệnh học, khi lý giải về vấn đề khuyết tật.
Thứ ba, nhân viên xã hội luôn tin rằng mọi mô hình thực hành phải luôn cho thấy khuyết tật là sản phẩn của xã hội do đó vấn đề quan tâm đầu tiên là sự can thiệp phải được nhìn nhận trong bối cảnh xã hội cụ thể. Người khuyết tật tạo nên một nhóm xã hội cụ thể với sự đóng góp và trải nghiệm nhất định đối với sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, họ cũng là một nhóm thiểu số đang đối mặt những rào cản xã hội như những nhóm dễ bị tổn thương khác trong xã hội. Giải pháp cho các vấn đề của người khuyết tật chính là ở khía cạnh tiếp cận vào các nguồn lực và đời sống chung của xã hội. Các rào cản về môi trường, thái độ và chính sách về vấn đề tham gia xã hội cần phải được xóa bỏ.
Thứ tư, nhân viên xã hội cần hiểu được lịch sử khuyết tật và vấn đề văn hóa của khuyết tật. Người khuyết tật khác nhau có các vấn đề khuyết tật khác nhau nhưng họ đều có điểm chung hơn là có những điểm khác biệt. Bởi vì họ cùng trải nghiệm được những khó khăn trong xã hội, đó chính là vấn đề mà nhân viên xã hội cần nhận thức và hiểu về quá trình những rào cản mà nhóm dân cư này đang trải nghiệm. Hơn nữa, nhân viên xã hội cũng cần có cách hiểu và am tường về vấn đề xây dựng chính sách, biện hộ chính sách trong vấn đề người khuyết tật.
Thứ năm, mặc dù người khuyết tật đang phải đối mặt với những rào cản, nhân viên xã hội cũng luôn phải tin rằng có nhiều điều đáng quan tâm trong cuộc sống của người khuyết tật. Các mô hình thực hành phải xem xét khuyết tật là sự khác biệt chứ không phải là vấn đề mất chức năng, rối loạn chức năng, nhân viên xã hội cần nhìn thấy khía cạnh tích cực trong vấn đề khuyết tật: người khuyết tật cũng luôn cảm thấy hài lòng với bản thân và cuộc sống của họ.
Thứ sáu, nhân viên xã hội cần tôn trọng các quyết định của thân chủ, nhất là giai đoạn bắt đầu tiếp cận và can thiệp. Có thể thân chủ chấp nhận hoặc phản đối một phần hay toàn bộ công việc, đó là vấn đề quyền kiểm soát cuộc sống của họ. Điều quan trọng, nhân viên xã hội giúp người khuyết tật hiểu rõ đâu là điều tốt nhất cho họ trong việc tự kiểm soát cuộc sống, tạo dựng cuộc sống độc lập… Vấn đề đạo đức thực hành và đạo đức nghiên cứu luôn được đề cao trong xã hội Úc, nhất là trong vấn đề khuyết tật và vấn đề trẻ em.
Từ những vấn đề về mặt nguyên tắc như vậy, một tiến trình công tác xã hội với trẻ khuyết tật cũng bao gồm các nội dung sau như một tiến trình công tác xã hội khác: Lượng giá-quá trình thu thập thông tin về thân chủ; Phác họa việc lượng giá khía cạnh tâm lý xã hội; Xây dựng các mối quan hệ trợ giúp; Đánh giá hiệu quả hoạt động can thiệp; Và đánh giá mức độ thay đổi của thân chủ và kết thúc hoặc xác định các hoạt động tiếp theo (Bland, Renouf & Tullgren 2009).
Tùy thuộc vào vấn đề của trẻ khuyết tật, mô hình thực hành với đối tượng này sẽ được triển khai theo bốn mô hình tiêu biểu như sau: Tiếp cận về điểm mạnh của thân chủ và tâm lý học thực chứng, tiếp cận về trao quyền,tiếp cận về quản lý trường hợp, và mô hình sống độc lập (Rothman 2002; Bland, Renouf & Tullgren 2009; Depoy & Gilson 2009; Mackelprang & Salsgiver 2009).
2.3. Một số trường hợp can thiệp trẻ khuyết tật từ mô hình Định hướng hòa nhập tại Nam Úc
Tổ chức Định hướng hòa nhập là một mô hình hoạt động công tác xã hội tại Nam Úc được hình thành từ sáng kiến hòa nhập và xây dựng các mô hình trợ giúp chuyên môn của chính quyền bang Nam Úc (đây là sáng kiến đầu tiên ở Úc về vấn đề hòa nhập xã hội). Đây là một tổ chức phi lợi nhuận triển khai các hoạt động trợ giúp quá trình hòa nhập ban đầu cho trẻ em, chủ yếu được triển khai ở hệ thống các nhà trẻ. Trẻ khuyết tật là một trong 4 đối tượng chủ yếu mà tổ chức này triển khai các dịch vụ trợ giúp. Mô hình trợ giúp được thực hiện qua các hoạt động tại nhà trẻ, sau thời gian ở nhà trẻ, trợ giúp tại gia đình và trợ giúp tại trung tâm chuyên biệt.
Chỉ trong năm 2009-2010, tổ chức này đã triển khai hoạt động trợ giúp cho hơn 4500 trẻ em, xây dựng mô hình hoạt động trợ giúp thông tin cho cha mẹ trẻ khuyết tật trí tuệ, tạo dựng được các hoạt động trợ giúp ở dạng tư vấn tại 13 trung tâm chăm sóc trẻ em. Mô hình trợ giúp đa văn hóa tổ chức giúp đỡ được 2018 giờ, đáp ứng được 380 yêu cầu về trợ giúp các thiết bị đặc biệt. Nguồn kinh phí dành cho hoạt động của tổ chức này chủ yếu từ nguồn ngân sách của hệ thống phúc lợi xã hội và nguồn trợ giúp của các tổ chức và cá nhân hoạt động từ thiện (Inclusive Directions 2011).
Mô hình công tác xã hội được thực hiện qua hệ thống nhân viên xã hội dưới sự quản lý của điều phối viên công tác xã hội (người kiểm huấn, giám sát các hoạt động trợ giúp). Khi Tổ chức định hướng hòa nhập nhận được yêu cầu cần trợ giúp của nhà trẻ, gia đình trẻ có nhu cầu trợ giúp, người điều phối có nhiệm vụ xuống cơ sở/gia đình để đánh giá nhanh, cùng nhân viên xã hội xây dựng định hướng can thiệp. Nhân viên xã hội có nhiệm vụ đánh giá sâu về các vấn đề liên quan đến trẻ khuyết tật (khó khăn trong cuộc sống, khó khăn trong hòa nhập tại nhà trẻ, khó khăn trong học tập, những khác biệt về văn hóa…) cũng như những vấn đề của nhà trẻ, của gia đình trẻ khuyết tật. Sau khi xác định được những vấn đề mấu chốt của trẻ khuyết tật, tiến trình can thiệp được thực hiện ở nhà trẻ, ở gia đình trẻ hoặc ở các hoạt động có sự tham gia của trẻ khuyết tật. Các hoạt động can thiệp và trợ giúp cha mẹ trẻ khuyết tật, nhân viên ở các nhà trẻ cũng được tổ chức này quan tâm và triển khai thực hiện hàng tháng qua việc triển khai các mô hình về đào tạo kỹ năng sống, kỹ năng giúp đỡ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phục hồi chức năng, kỹ năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ khuyết tật, kỹ năng giúp trẻ khuyết tật học qua hình ảnh… Các chương trình mang tính đào tạo này được thực hiện bởi chính các nhân viên xã hội.
Qua hai ví dụ can thiệp với trẻ khuyết tật ở tổ chức Định hướng Hòa nhập, việc tiến hành tổ chức các hoạt động can thiệp cần có thời gian dài và cần lặp đi lặp lại. Các hoạt động can thiệp cũng được dựa trên những khác biệt của thân chủ, gia đình thân chủ cũng như những yếu tố văn hóa của gia đình và thân chủ. Các hoạt động can thiệp đã dựa trên cách tiếp cận về môi trường sinh thái, hệ thống, trao quyền, định hướng có được cuộc sống độc lập. Trong nhận thức chung của xã hội, mô hình hiểu về khuyết tật đã chuyển sang mô hình xã hội, không còn thuần túy hiểu khuyết tật ở trên những vấn đề cá nhân. Do đó, quá trình can thiệp không phải quá chú trọng vào vấn đề thay đổi nhận thức của thân chủ, người thân của thân chủ hay của xã hội mà chú ý nhiều hơn đến việc tổ chức các can thiệp trực tiếp, cũng như làm đầu mối điều tiết các dịch vụ hiện có của xã hội liên quan đến vấn đề mà thân chủ đang bắt gặp. Trong thực tế của xã hội Úc, định hướng hòa nhập đã được biểu hiện trong toàn bộ các chính sách và các dịch vụ xã hội, đồng thời vấn đề dịch vụ xã hội đa dạng đã trở thành các yếu tố thuận lợi cho việc phát triển và triển khai các hoạt động thực hành cho người khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng. Bên cạnh những vấn đề thuận lợi từ hệ thống chính sách và dịch vụ xã hội,
3. Kết luận và một số đề xuất với công tác xã hội với người khuyết tật ở Việt Nam
Công tác xã hội với người khuyết tật nói chung và với trẻ khuyết tật nói riêng ở Úc được phát triển theo đúng định hướng nghề chuyên môn ở quốc gia này, và dựa trên các định hướng chung về công tác xã hội trên thế giới. Các điều kiện về mặt chính sách xã hội, dịch vụ xã hội, lịch sử phát triển nghề công tác xã hội và cách nhìn nhận vấn đề khuyết tật là những yếu tố thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp này. Ngoài ra, định hướng xây dựng một xã hội hòa nhập là điều kiện hết sức quan trọng có tác động trở lại với phát triển nghề công tác xã hội nói chung và phát triển công tác xã hội nói riêng.
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Ban Điều phối các hoạt động trợ giúp người khuyết tật và kết quả điều tra mức sống hộ gia đình (2006) và tổng điều tra dân số và nhà ở (2009), hiện có khoảng 6.3% dân số Việt Nam là người khuyết tật. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội từ thời kỳ đổi mới, sự quan tâm của xã hội trên góc độ hệ thống chính sách xã hội và các hoạt động bảo trợ và hoạt động xã hội ngày được quan tâm và đầu từ nhằm hướng đến nâng cao khả năng hòa nhập xã hội cho người khuyết tật (General Statistics Office 2008; Le Bach Duong, Khuat Thu Hong & Nguyen Duc Vinh 2008). Mặc dù có những sự thay đổi rõ nét về mặt hệ thống chính sách xã hội, hệ thống dịch vụ xã hội hướng đến trợ giúp người khuyết tật, đời sống của người khuyết tật vẫn gặp nhiều hạn chế và rào cản, từ góc độ nhận thức xã hội, đến rào cản về cơ sở hạ tầng xã hội, đến các dịch vụ xã hội chuyên nghiệp, cũng như cơ hội phát triển và vấn đề việc làm.
Các nghiên cứu gần đây có chỉ rõ, nguyên nhân dẫn tới thực trạng của người khuyết tật chưa có nhiều chuyển biến được thể hiện ở một số khía cạnh sau: (i) nhận thức của xã hội về quan điểm khuyết tật, người khuyết tật còn nhiều hạn chế, hiện cách hiểu về khuyết tật đã được tập trung nhiều ở mô hình xã hội thì cách nhìn ở Việt Nam vẫn còn đề cập nhiều đến mô hình cá nhân/y tế; (ii) hệ thống chính sách xã hội tương đối đầy đủ nhưng tính khả thi chưa cao do nguồn lực hiện thực hóa (nguồn tài chính và nguồn nhân lực chuyên môn-đặc biệt là nguồn nhân lực viên xã hội) còn nhiều hạn chế, và thiếu cơ chế vận hành; (iii) từ những khó khăn chung về cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận và điều kiện xã hội, người khuyết tật vẫn chưa được hưởng các mô hình trợ giúp xã hội và dịch vụ xã hội mang tính chuyên môn điều này lại có tác động không tích cực trở lại quá trình hòa nhập xã hội của người khuyết tật (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội 2009; Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam 2010; National Coordinating Council on Disability 2010; Lap 2011).
Công tác xã hội là một hoạt động chuyên môn mới ở Việt Nam và là mô hình hoạt động chuyên môn hiệu quả hướng đến trao quyền và nâng cao chất lượng sống của các đối tượng yếu thế, cùng với sự ban hành Luật người khuyết tật (2010), định hướng phát triển xã hội đến năm 2020 và đề án phát triển nghề công tác xã hội, công tác xã hội Việt Nam nói chung và công tác xã hội với người khuyết tật nói riêng đang đối mặt với những cơ hội và những thách thức rất lớn (Viện KHLĐXH 2010; Vietnam National Assembly 2010). Việc xây dựng các mô hình thực hành công tác xã hội phù hợp trong bối cảnh hệ thống phúc lợi, chính sách xã hội và dịch vụ xã hội là điều luôn được đặt ra không chỉ ở các quốc gia mới phát triển nghề công tác xã hội mà còn ở các quốc gia có hệ thống nghề công tác xã hội phát triển mạnh và lâu đời. Một trong những khuyến nghị về xây dựng mô hình công tác xã hội cho người khuyết tật có tính bền vững và khả thi cao đó là cần dựa trên cách hiểu chung về vấn đề khuyết tật và hệ thống chính sách và dịch vụ xã hội hiện hành, cũng như cần dựa trên cách tiếp cận về hòa nhập xã hội (Úc, Canada, Anh và các quốc gia phát triển Bắc Âu). Để phát triển công tác xã hội với đối tượng khuyết tật ở Việt Nam, một số vấn đề được đặt ra từ kinh nghiệm phát triển công tác xã hội khuyết tật ở Úc như sau:
Thứ nhất, ở góc độ vĩ mô, việc có được hệ thống các chính sách cho người khuyết tật mang tính khả thi cao là điều hết sức quan trọng. Để tính khả thi hiện hữu trong các chính sách, chính sách xã hội phải gắn liền với khả năng xây dựng và triển khai các dịch vụ xã hội. Việc chuyển các mô hình chính sách từ trợ cấp về mặt tài chính sang các mô hình đào tạo nghề, đào tạo kỹ năng sống, tổ chức các dịch vụ nâng cao khả năng sống độc lập của người khuyết tật là hết sức cần thiết. Đồng thời, tiếng nói của người khuyết tật cần được thể hiện rõ trong tiến trình xây dựng luật và hệ thống chính sách cho chính người khuyết tật. Các hoạt động nghiên cứu và thực hành về công tác xã hội cũng cần thêm chức năng và nhiệm vụ đóng góp vào việc đưa tiếng nói của người khuyết tật trong các chính sách xã hội và chương trình xã hội.
Thứ hai, tiếp cận hòa nhập cần được lồng ghép vào quá trình xây dựng các chính sách dành cho người khuyết tật. Cách tiếp cận này là định hướng tác động toàn diện về mặt xã hội cho người khuyết tật và người không khuyết tật. Hiện nay, các chính sách ở Việt Nam liên quan đến vấn đề người khuyết tật cũng như những đối tượng yếu thế đang tập trung quá nhiều vào đối tượng cần tác đông mà ít quan tâm đến tác động vào các đối tượng liên quan, vào điều kiện sống của xã hội. Hoặc có đề cập nhưng việc triển khai thực hiện các chính sách không đồng bộ.
Thứ ba, việc quan tâm tạo nguồn nhân viên xã hội cần chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh kỹ năng và khía cạnh đạo đức nghề nghiệp. Hiện các chương trình đào tạo ở các trường đại học đã có những môn học liên quan đến lĩnh vực khuyết tật, tuy nhiên chưa hình thành có hệ thống về mặt nội dung đào tạo và thực hành, nhất là thiếu các môn học và nội dung đề cập đến khía cạnh kỹ năng trong thực hành công tác xã hội ở các lĩnh vực cụ thể. Đi cùng với việc đầu tư khía cạnh kỹ năng trong vấn đề đào tạo công tác xã hội, vấn đề xây dựng hệ thống các chuẩn mực thực hành và quy điều đạo đức trong thực hành công tác xã hội là điều rất cần thiết. Đó là những yếu tố cơ bản trong việc triển khai các mô hình tác động ở các đối tượng yếu thế trong xã hội, nhất là đối tượng người khuyết tật và trẻ khuyết tật.
Thứ tư, xây dựng các mô hình, trung tâm công tác xã hội nói chung từ cấp cơ sở là một định hướng cho việc hình thành hệ thống công tác xã hội chuyên nghiệp ở Việt Nam. Cơ cấu của các mô hình này vừa có thể ở trong hệ thống quản lý của nhà nước, vừa có thể nằm trong hệ thống các tổ chức phi chính phủ nhưng tất cả đều hưởng những tác động trực tiếp và nằm trong sự vận hành của hệ thống phúc lợi xã hội nói chung. Với đối tượng khuyết tật, nhà nước và hệ thống an sinh xã hội cần phải đầu tư nguồn kinh phí tối đa cho sự vận hành các mô hình thực hành cũng như điều tiết các nguồn lực từ tài trợ, hoạt động từ thiện và đóng góp của xã hội. Ở Úc, mô hình công tác xã hội được hình thành ở các cộng đồng dưới sự hỗ trợ kinh phí từ hệ thống Central Link (giống như ngành lao động xã hội ở Việt Nam).
Thứ năm, việc hình thành chính thức hội nhân viên xã hội, hội đào tạo công tác xã hội là hết sức cần thiết. Đây là bộ máy định hướng các quy chuẩn nghề nghiệp, đánh giá kỹ năng nghề nghiệp cho người làm công tác xã hội. Có bộ máy này vấn đề hoạt động công tác xã hội mới định hướng được tính chuyên nghiệp cũng như có xây dựng được các cơ chế giúp công tác xã hội phát triển tốt hơn ở các khía cạnh đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng trong thực tiễn.
Nguồn: english.molisa